Các giống loài Sự thuần hóa động vật

Một con dê nhà

Trong chăn nuôi giống là tiền đề để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, công tác giống cho phép tăng nhanh số lượng đàn gia súc, tạo những tiền đề hết sức quan trọng nhằm nâng cao phẩm chất đàn gia súc, năng suất và chất lượng sản phẩm chăn nuôi. Gia súc, gia cầm là những vật nuôi thuộc lớp có vú, lớp chim được hình thành do quá trình lao động sáng tạo của con người và trên bản thân con vật có dấu vết của quá trình lao động sáng tạo đó. Nguồn gốc vật nuôi của tất cả vật nuôi ngày này đều có nguồn gốc từ thú hoang dã đã được thuần hóa nhờ sức lao động và trí thông minh sáng tạo của con người.

Người ta đề xuất rằng có ba cách thức chính mà hầu hết các gia súc trong những nhóm gia súc đã tiến đến sự thuần hóa: (1) các cá thể này thích nghi với một yêu cầu nào đó của con người (ví dụ như chó, mèo, gà, có thể lợn); (2) động vật săn mồi tìm kiếm thức ăn (ví dụ: cừu, dê, gia súc, trâu, bò, lợn, tuần lộc, llama, alpaca, và gà tây); Và (3) động vật mục tiêu cho các nguồn tài nguyên dự trữ và phi thực phẩm (ví dụ như ngựa, lừa, lạc đà). Các dữ liệu khảo cổ học và di truyền cho thấy dòng gen di truyền hai chiều giữa các loài hoang dã và được thuần hóa bao gồm lừa, ngựa, lạc đà, dê, cừu và lợn là phổ biến. Một nghiên cứu đã kết luận rằng việc lựa chọn con người đối với các đặc điểm thuần hóa có thể làm mất tác dụng đồng nhất của dòng gen từ lợn rừng lên heo và tạo ra các hòn đảo thuần hóa trong bộ gen. Quy trình tương tự cũng có thể áp dụng đối với các động vật nuôi khác.

Ngựa nhà

Một con ngựa nhàMột cô gái đang cưỡi ngựa

Ngựa là con vật được thuần hóa muộn nhất cuối thời kỳ đồ đá, bước sang thời kỳ đồ đồng trong khi các loại gia súc khác được thuần hóa vào đầu thời kỳ đồ đá. Theo bằng chứng thời tiền sử, từ Tây Âu đã cho biết được một phần về mối quan hệ đó, căn cứ vào những hóa thạch và những bức họa trên bia đá, những hình ảnh khắc hoặc sơn nơi các hang động cho thấy ngựa đóng một vai trò quan trọng trong các nghi lễ của người tiền sử, trong nền văn hóa trải qua nhều thế kỷ. Buổi đầu của hàng chục ngàn năm trước đây, giống ngựa hoang sống lang thang trên những cánh đồng dưới thời nước đá hay thời kỳ băng hà của Châu Âu ngựa bị con người bắt và thuần hóa. Thời gian đó, ngựa là thức ăn thông dụng của người tiền sử, mãi về sau này người ta bắt về nuôi ngựa đã trở thành gia súc.

Việc thuần hóa ngựa hoang thành ngựa nuôi bắt đầu cách đây 4000 năm, đặc biệt quy mô cách đây 3000 năm. Việc thuần hóa ngựa thực hiện đầu tiên ở vùng Trung Á như UkraineKazakhstan. Những khai quật mới đây cho thấy chỉ khoảng 4000 năm trước Công nguyên người ta mới biết dùng ngựa để kéo xe, trước đó có lẽ chỉ được dùng làm thực phẩm. Trong những di chỉ mà người ta tìm thấy, người Ai Cập đã biết cưỡi ngựa khoảng 2000 năm trước Công nguyên, tuy nhiên thời kỳ đó họ chỉ cưỡi trơn không yên cương và chưa biết cách điều khiển con vật. Họ ngồi chàng hảng trên mông vì thời kỳ đó giống ngựa chưa đủ mạnh để ngồi trên lưng. Phải đến khoảng thế kỷ thứ 8 trước Công nguyên, sau khi pha nhiều giống ngựa khác nhau, người ta mới có được giống đủ tốt để có thể cưỡi và đủ linh động để sử dụng cung tên khi di chuyển.

Chưa rõ con ngựa được nuôi từ thời nào tại Trung Quốc, loài ngựa chỉ được nuôi làm gia súc chừng 5000 năm trước, sau các con vật như chó, dê, cừu, lừa, bò và những dân tộc ở Trung Á, Ba Tư, Afghanistan, Mông Cổ là những người du mục đầu tiên biết cách nuôi và huấn luyện chúng, sử dụng chúng trong chiến tranh một cách thiệt nghệ, những con ngựa tốt được lai giống đầu tiên là ở Tây Á, tại những quốc gia ngày nay dưới tên Kazakhstan, Turmenistan (ngựa Đại Uyển, Hãn huyết mã), Uzbekistan, Tadzhikistan, Kirghizistan mà được gọi chung là Turan (Thiên Mã), ngoài ra còn ngựa Ả rập, ngựa Mông Cổ...

Ngựa được thuần dưỡng đầu tiên ở vùng Trung Á, rồi đến Trung Quốc và một số nước khác ở Viễn Đông. Vào khoảng 2000 năm trước Công nguyên (TCN), ngựa được dùng trong chiến trận, để đi săn và lấy sức kéo. Ngựa thông minh, có khả năng nhớ chủ cũ và nhớ đường rất tốt. Ở phương Đông, khoảng 2000 năm TCN, ngựa đã được dùng để kéo chiến xa. Vào khoảng 1000 năm TCN, được dùng sử dụng trong các trận chiến. Các hiệp sĩ Châu Âu rất ưa chiến đấu trên lưng ngựa đực, còn các kị binh Ả Rập lại thích dùng ngựa cái vì ngựa cái phi êm, không hay đòi ăn, thuận lợi cho phục kích kẻ địch vì chúng không hay hí. Khi phi nước kiệu, kiểu chạy nhanh nhất, ngựa có thể đạt tốc độ 60 km/h trong cự ly 150m. Không chỉ sử dụng trong di chuyển, chiến trận, nhiều nước ở Châu Âu còn thuần hóa ngựa để chở hàng và cày cấy.

Lợn nhà

Bài chi tiết: Nuôi lợnGiống lợn
Lợn rừng là tổ tiên của lợn nhàMột con lợn bạch

Lợn nhà được cho là có nguồn gốc từ lợn rừng châu Âulợn rừng châu Á, chúng được thuần hóa ở nhiều địa điểm khác nhau như Ấn Ðộ, vùng Ban tích, Siberi, Anpơ, vùng Ðông Nam Á trong đó có Việt Nam. Lợn nhà thuần hóa có tên khoa học là Sus scrofa domesticus được thuần hóa vào khoảng 9000 năm trước công nguyên. Như vậy, lợn rừng là tổ tiên của tất cả các giống lợn nuôi thuần hóa ngày nay.

Lợn rừng thường có da dày, lông cứng, màu xám đen hoặc sọc nâu sẫm, chân khỏe, chạy nhanh, mõm dài, khỏe, con đực có răng nanh dài. Tổ tiên xa xưa của lợn là lợn hoang dã được con người săn bắn để cung cấp thực phẩm cho cuộc sống của người nguyên thủy. Dần dần họ nhận ra rằng thay vì săn bắn, nuôi lợn có thể được tiến hành một cách dễ dàng hơn và thuận lợi hơn trong việc cung cấp thực phẩm cho con người. Xuất phát từ đó họ tiến hành giữ lại một số lợn săn bắn được hoặc mua từ nơi khác để nuôi. Lợn hiện đại ngày nay không tồn tại trong điều kiện hoang dã nhưng rõ ràng nó mang các gen của tổ tiên xa xưa là lợn rừng.

Con lợn tại trang trại đã được hình thành từ ngàn đời và thậm chí hàng vạn năm thông qua quá trình thuần hóa và chọn lọc lâu đời. Đầu tiên, con người thuần hóa lợn hoang dã và sau đó dần dần thông qua quá trình chọn lọc và lai tạo để tạo nên một số lượng lớn các giống lợn có màu sắc, hình dáng và kích thước khác nhau. Lợn được chọn lọc để đáp ứng một số mục tiêu khác nhau của con người và thích hợp với các điều kiện môi trường địa lý khác nhau. Những con lợn đang nuôi ngày nay ở các trang trại chăn nuôi lợn là kết quả của hàng loạt quá trình chọn lọc chính thức và không chính thức của con người và tự nhiên.

Quá trình thuần hóa lợn nhà nuôi của Châu Á và Châu Âu được thực hiện độc lập từ các loài phụ lợn rừng ở khu vực Châu Á và Châu Âu, Những con lợn chúng ta biết ngày nay có một lịch sử rất dài kể từ khi được thuần hóa độc lập khỏi nguồn gốc ban đầu của lợn rừng ở châu Âu và châu Á cách đây khoảng 10.000 năm. Việc thuần hóa này đưa đến các giống lợn châu Âu và châu Á với những đặc điểm và hình dáng rất khác nhau. Lợn thương phẩm của châu Âu hiện đại có chứa ADN có nguồn gốc từ châu Á. Theo các nhà nghiên cứu, đa dạng di truyền ở lợn thương phẩm lớn hơn trong các quần thể lợn rừng hiện nay.

Hiện có khoảng 498 giống lợn khác nhau trên toàn thế giới trong đó ở Châu Á có khoảng 184 giống lợn, Châu Âu có khoảng 228 giống và các khu vực khác trên thế giới là 498 giống. Các phần khác nhau của bộ gien lợn thương phẩm gần gũi với lợn Trung Quốc hơn là lợn rừng châu Âu, lợn ở châu Á và châu Âu đã được thuần hóa độc lập với nhau từ khoảng 10.000 năm trước, không có dấu vết ADN nào của châu Á trong những con lợn châu Âu, tuy nhiên bắt nguồn ở Anh vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19 do nhu cầu về thịt lợn gia tăng mạnh mẽ trong cuộc Cách mạng công nghiệp và chăn nuôi lợn ở Anh nói riêng, cho thấy rằng lợn châu Á có những đặc điểm mà họ muốn cải thiện trong những con lợn của họ. Nhìn chung, lợn Trung Quốc sinh sản và béo tốt hơn những con lợn châu Âu.

Vì vậy, các nhà lai tạo giống đã nhập khẩu một số cá thể của Trung Quốc trong khoảng thời gian này và lai chúng với những con lợn châu Âu của họ. Đa dạng di truyền lớn hơn trong các giống lợn thương mại hiện nay là kết quả của phép lai giữa lợn châu Âu và lợn Trung Quốc trong khoảng 200 năm về trước. Chọn lọc cẩn thận cho các đặc tính như khả năng sinh sản và tạo mỡ của những con lợn châu Á sau đó đã đảm bảo rằng một số mảnh của ADN châu Á xuất hiện với tần suất cao trong những con lợn châu Âu. Một ví dụ là các gien AHR, trong đó nhiều con lợn châu Âu có phiên bản châu Á. Lợn nái mang gien châu Âu có ít con hơn đáng kể so với những con lợn mang phiên bản châu Á.

Chó nhà

Bài chi tiết: Giống chó
Hai con chó nhà bầu bạn trên bãi biểnMột con chó St Bernard là giống chó được chọn lọc để chuyên cứu hộ

Con chó là loài đầu tiên được thuần hóa, và được nhân giống chúng trên khắp vùng Á-Âu trước khi kết thúc kỷ nguyên Pleistocene muộn, trước khi canh tác và trước khi thuần hóa các loài động vật khác, con người đã mang theo chó như một người bạn đồng hành và để đi săn vài nghìn năm trước khi con người biết trồng trọt. Người ta cho rằng chó là con vật được thuần hóa đầu tiên, nhưng ý kiến này chưa thực xác đáng. Gần đây người ta cho rằng dê, cừu là những gia súc được thuần hóa sớm nhất mà nguồn gốc chúng là dê rừng. Không giống các loài sinh vật được thuần hóa khác được lựa chọn chủ yếu cho các đặc điểm sản xuất, chó được lựa chọn đầu tiên cho hành vi của chúng.

Khoảng 10.000 năm trước, con người đã có mối liên hệ với loài sói xám, và số phận loài người và loài sói có sự gắn kết với nhau như một định mệnh đã định sẵn từ trước của tạo hóa. Ban đầu, những con sói hoang đã bị thu hút bởi thịt động vật mà con người săn bắn được và quanh quẩn bên con người để ăn những mẫu thịt thừa còn sót lại, con người cũng không xua đuổi chúng thậm chí nhờ chúng mà phát hiện mối hiểm nguy, và sau đó, con người thấy chúng hữu ích cho việc báo động hoặc để giúp đỡ trong săn bắn điều này có thể đã xảy ra cách đây khoảng 10.000, thậm chí 20.000 năm trước đây.

Loài thú này đã dần dần thay đổi về hình dáng và tính cách qua quá trình thuần hóa. Não, răng và chân nhỏ lại, tai cụp xuống, đuôi cụp xuống. Chúng có khả năng đoán biết được thái độ của con người qua nét mặt. Chó là loài vật được thuần hóa đầu tiên, trước khi con người nuôi mèo, gà, bò, dê, lợn và cừu, thậm chí là trước cả khi chúng ta trồng lúa, lúa mì, lúa mạch và ngũ cốc. Hiện các nhà khoa học vẫn chưa tìm được câu trả lời về thời điểm, nơi và cách thức mà loài chó xuất hiện, trừ một điều là loài chó có nguồn gốc từ loài sói. Một số người cho rằng loài chó xuất hiện cách đây khoảng 10.000 năm, một số khác là 30.000 năm. Chúng đã xuất hiện từ châu Âu, hay Trung Đông hay Đông Á, điều này vẫn chưa hề rõ ràng.

Có người cho rằng, con người đã bắt và thuần hóa loài sói, nhưng cũng có ý kiến cho rằng, loài sói đã tự thuần hóa để trở thành loài chó. Loài chó đã được thuần hóa tại châu Âu hoặc miền Tây Siberia, từ cách đây 18.800 đến 32.100 năm, qua phân tích ADN của 126 con chó và sói hiện đại, và nghiên cứu 18 bộ di cốt hóa thạch, cũng có ý kiến cho rằng Trung Quốc là nơi xuất phát nguồn gốc của loài chó từ 33.000 năm trước, chúng có nguồn gen rất đa dạng. Sau đó, một bộ phận đã di cư về phía Tây cách đây 18.000 năm. Các nhà khảo cổ đã phát hiện hóa thạch chó 15.000 năm ở vùng Tây Âu, 12.500 năm ở vùng Đông Á, nhưng không có hóa thạch nào 8.000 năm tuổi trong khoảng thời gian này cả.

Có một di tích cổ 4.800 tuổi có tên là Newgrange ở miền Đông Ireland. Đây là nơi đã tìm thấy xương cốt của loài chó cổ đại, loài chó có hai nhánh nguồn gốc, một từ phía Đông và một từ phía Tây của đại lục Á-Âu. Nhánh phía Đông gồm loài chó Shar Peis và chó Tây Tạng, còn nhánh phía Tây gồm đa phần các loài chó khác, trong đó gồm cả loài chó cổ đại ở vùng Newgrange, trước đây chỉ có một quần thể chó nhưng sau đó một nhóm tách ra, tạo nên một cuộc di cư lớn về phía Tây kéo dài nhiều năm. Nghiên cứu cho thấy “dân số” loài chó đã giảm đi đáng kể và đây chính là bằng chứng của sự di cư.

Ban đầu, cả hai nhánh đều là một quần thể lớn nhưng sau đó một nhánh tách ra và di cư về phía Tây, các nghiên cứu và so sánh xương hóa thạch để tìm hiểu về niên đại của loài chó cách đây 6.400-14.000 năm cả ở phía Đông và Tây đại lục Á-Âu, đã có sự không trùng khớp. Thực tế, khi những con chó phía Đông di cư về phía Tây để vào châu Âu, ở đây đã có mặt loài chó sinh sống cùng con người. Như vậy, có ý kiến cho rằng loài chó đã được thuần hóa tới hai lần, nhiều nghìn năm trước, ở phía Tây lục địa Á - Âu, con người thuần hóa loài sói xám, điều tương tự xảy ra ở phía Đông.

Tức là có hai nhóm chó khác nhau cả về bản chất lẫn địa lý, gọi là chó Tây và chó Đông. Thời kỳ Đồ Đồng, chó Đông di cư về phía Tây cùng với con người và gặp chó Tây bản địa, kết quả là chó Đông đã thay thế chó Tây. Ngày nay, các giống chó ở phía Đông là hậu duệ của loài chó Đông cổ đại. Các giống chó ở phía Tây ngày nay có nhiều đặc điểm giống với những con chó Đông đã di cư vào thời đó. Chỉ có 10% là có nguồn gốc từ loài chó Tây cổ đại, ngày nay đã tuyệt chủng.

Trâu bò

Một con bò nhà, qua quá trình thuần hóa lâu dài, chúng đã có ngoại hình và tập tính khác nhiều so với tổ tiên

Bò nhà hiện nay có 2 nhóm: Nhóm bò ôn đới không có u có nguồn gốc từ bò rừng Tua hay là loài bò rừng châu Âu, sống ở rừng châu Âu, châu Á, Bắc Phi. Các địa điểm thuần hóa bò này là Trung Á, Ấn Ðộ, Malaysia, Bắc Phi và Nam châu Âu. Nhóm bò nhiệt đới có u (bò u) hiện nay đang phân bố rộng rãi ở vùng nhiệt đới, á nhiệt đới, nguồn gốc của nó có thể là một dạng đặc biệt hoặc do đột biến di truyền của bò rừng Tua. Bò rừng có lông mềm, dài, thẳng, trán có xoáy ốc, sắc lông đen hoặc nâu xám có sọc vàng dọc sống lưng, sừng dài, đen, cong như cánh cung, bò rừng rất khỏe và nhanh nhẹn, khá dữ tợn, con cái cao 150–170 cm, con đực cao 175–200 cm.

Những con trâu nhà hiện nay có nguồn gốc từ trâu rừng Ấn Ðộ, từ đó trâu được thuần hóa lan theo 2 hướng: hướng Ðông Nam Á và hướng châu Phi, Trung cận đông, Nam châu Âu. Có thể chia trâu làm 2 nhóm: nhóm sừng ngắn, thường gặp ở Nhật, Bắc Trung Quốc, Ai Cập, Ý, Nam Liên Xô (cũ), nhóm sừng dài thường gặp ở Miến Ðiện, Nam Trung Quốc, Việt Nam. Những con trâu nhà được chia thành các nhóm là trâu đầm lầy và trâu sông. Nhìn chung việc thuần hóa và nuôi dưỡng trâu không phổ biến bằng bò do phạm vi phân bố của trâu rừng hẹp hơn.

Cừu nhà

Bài chi tiết: Nuôi cừuGiống cừu

Đây là một trong những loài gia súc được con người thuần hóa sớm nhất để nuôi lấy lông, thịt, sữa, mỡ và da. Đàn cừu trên thế giới hiện nay là trên 1 tỷ con và được nuôi nhiều ở vùng Trung Á, châu Âu. Cừu có nhiều khả năng được thuần hóa từ loài hoang dã là cừu Mouflon của châu Âu và châu Á (các loài cừu núi). Một trong những động vật được thuần hóa sớm nhất để phục vụ cho mục đích nông nghiệp như lấy len, thịt và sữa. Lông cừu là loại sợi động vật được sử dụng rộng rãi nhất, và thường được thu hoạch bằng cách cắt lông.

Nhiều nước trên thế giới, các giống cừu rừng được thuần hóa dần thành cừu nhà trong khoảng hơn hai thế kỷ nay. Nhiều quốc gia thích nuôi cừu hơn dê, không hẳn là do tính cừu hiền lành, không phá phách như dê, mà thực sự cừu là vật nuôi rất có ích cho đời sống của con người. Được hiết, trên thế giới hiện nay có đến 914 giống cừu khác nhau. Trong khi đó tại Mỹ có 35 giống và phổ biến nhất là các giống cừu Hampshire, cừu Rambouillet, cừu Dorset, cừu Suffolk, cừu Dall, cừu Barbary, cừu Barbados

Thỏ nhà

Bài chi tiết: Nuôi thỏ

Các giống thỏ nhà trên thế giới hiện nay đều có nguồn gốc từ thỏ rừng châu Âu (Orytolaguc cuniculus). Sự thuần hoá thỏ rừng thành thỏ nhà chỉ khoảng vài trăm năm gần đây. Thỏ rừng ở Châu Âu được phát hiện bởi những nhà ngữ âm học khi họ đến bờ biển Tây Ban Nha. Từ đầu thế kỹ 19 việc nuôi thỏ đã phát triển khắp Tây Âu và được người Châu Âu đưa thỏ đi du nhập ở tất cả các nước trên thế giới. Cuối thế kỹ 19 và nhất là đầu thế kỹ 20 cùng với phương pháp nuôi nhốt cùng với các giống thỏ đã thích nghi với điều kiện nuôi nhốt đã được chọn lọc và thay đổi dần về ngoại hình, sinh lý thích nghi với hoàn cảnh cụ thể và khả năng sản xuất phù hợp với nhu cầu thâm canh với mục đích sản xuất thịt thỏ để làm động vật thí nghiệm và làm sinh vật cảnh (thỏ kiểng).

Gà nhà

Bài chi tiết: Nuôi gàGiống gà
Đàn gà nhà đã thuần hóa

Gà nhà có nguồn gốc từ gà rừng (gà lừng) mà cụ thể là các loài gà rừng lông đỏgà rừng lông xám, gà rừng thường bé nhỏ, đẻ theo mùa vụ, trứng nhỏ, gà rừng có thể bay cao và bay khá xa. Gà nhà được thuần hóa đầu tiên ở Ấn Ðộ và sau này là ở vùng Đông Nam Á. Các loại gia cầm khác như ngan nhà được thuần hóa ở châu Mỹ, gà sao nhà ở châu Phi, gà tây nhà ở Mêhicô, ngỗng nhà, vịt nhà ở châu Á cũng được con người quan tâm thuần hóa.

So với nhiều loài vật hoang dã cùng và gần họ hàng như các loại chim thì bản tính của gà rừng nhát hơn nhiều, vì vậy cần phải chịu khó, nắm được đặc tính của chúng nếu không thì khó mà thuần hóa được, tùy độ tuổi của gà rừng mà có sự lựa chọn cách thuần hóa phù hợp. Nếu là mang trứng về cho gà nuôi ở nhà hoặc sử dụng máy để ấp thì khi nở ra gà rừng con sẽ nhanh chóng quen với người hơn, nên ít bay nhảy tán loạn. Còn bắt được gà con mới nở thì cần phải nhốt cùng chuồng với gà nhà có cùng cỡ để làm quen, lồng nhốt phải che kín phía trên và 3 mặt xung quanh để gà rừng con quen dần, cần tập cho ăn các loại bột cám, bắp và sâu bọ, cào cào nhỏ.

Đến khoảng 4-6 tuần sau, hoặc có thể lâu hơn một chút thấy gà rừng con không còn tung lồng khi gặp người lạ thì có thể thả ra ngoài cho sống chung với gà nuôi. Tuy nhiên cách thuần hóa gà rừng cỡ này thì tỉ lệ sống khá thấp, ước chỉ khoảng từ 50-60%. Gà rừng trưởng thành thì thuần hóa tuy khó hơn, nhưng lại có tỉ lệ sống nhiều hơn.Với loại gà mới trưởng thành thì tỉ lệ sống cao hơn.

Cách thuần hóa hiệu quả nhất là nhốt ghép chung chuồng với nhau theo cặp trống-mái để tránh gà rừng đá, cắn nhau; không nên nhốt riêng lẻ. Nên đặt chuồng ở vị trí thông thoáng nhưng đừng quá vắng, hoặc đông người. Thời gian 1-3 tuần đầu cũng phải dùng vải che bớt 3 mặt chuồng cho gà rừng bớt hoảng sợ, tuy qua một thời gian nuôi, nhốt chung dù gà rừng đã dạn và sống chung với gà nuôi, thế nhưng không dùng gậy, đá ném đuổi; hoặc để chó, mèo rượt đuổi. Bởi bản tính của gà rừng rất nhát nên dễ hoảng loạn dẫn đến bay, bỏ đi.

Mèo nhà

Bài chi tiết: Giống mèo
Mèo được con người thuần hóa từ lâu trong lịch sử để bắt chuộtNhững con mèo trưởng thành khó thuần hóa hơn mèo conMèo thuần hóa được chăm sóc đặc biệtMèo con dễ thuần hóa hơn mèo giàMèo khi thuần hóa phải qua quá trình phức tạp

Mèo cũng là loài được thuần hóa và nuôi phổ biến nhất trên thế giới. Có khám phá về một loài mèo rừng được chôn gần một người trên đảo Síp từ cách đây khoảng 9.500 năm, một bằng chứng chứng minh sự gần gũi trong mối quan hệ giữa mèo và người. Và từ thời Ai Cập cổ đại, có những bức tranh khoảng 4.000 năm tuổi miêu tả con mèo, thường ngồi cạnh ghế của một người phụ nữ, bằng chứng khảo cổ học mới về mối quan hệ giữa người và mèo đã được tìm thấy ở Trung Quốc. Câu chuyện bắt đầu từ nền nông nghiệp và việc phá hoại của loài chuột.

Khoảng 5.560-5.280 năm trước ở khu vực Thiểm Tây, miền trung Trung Quốc, con người sống trong những ngôi làng nhỏ, những người nông dân đã gặp vấn đề là động vật gặm nhấm, những người nông dân cũng tìm được sự giúp đỡ trong cuộc chiến của họ chống lại các động vật gặm nhấm đó là mèo. Không mất nhiều thời gian để nông dân nhận ra các lợi ích của việc nuôi mèo và nhân giống chúng, bằng cách không giết chết chúng, thậm chí còn giúp chúng theo những cách khác nhau như cung cấp chỗ ở ấm áp và thực phẩm.

Hành vi của loài mèo hiện đại từng sớm thu hút người nông dân, từng có thức ăn cho mèo trong làng nuôi cổ đại, và chúng đã giúp lại người nông dân, bằng cách ăn động vật gặm nhấm, từ đó tạo thành một mối quan hệ tương hỗ, một phần vì con người nói chung không có xu hướng ăn thịt mèo. Toàn bộ chuỗi các sự kiện, từ nông nghiệp đến các loài gặm nhấm tới mèo nuôi, có thể là tự phát, do nó tự bắt đầu xảy ra tại nhiều nơi, nhiều điểm trong cùng một thời gian, bất cứ nơi nào có cả nông nghiệp và mèo rừng, nó có thể xảy ra theo cách này, ở khắp mọi nơi.

Mèo thuần là một chất xúc tác để phát triển nông nghiệp, mèo nhà trở thành thú cưng gần đây hơn so với những con chó thuần, loài đã xuất hiện từ thời săn săn bắn hái lượm, rất lâu trước khi nông nghiệp được khai phá. Có phản ứng động vật sang người, và phản ứng của con người với động vật. Có một mối quan hệ, tập trung vào thực phẩm, trong đó cả hai loài-con người và mèo-phản ứng và thích ứng theo thời gian. Mèo hoang rất ít hoặc gần như không tiếp xúc với con người. Nhiều chú mèo được sinh ra trong tự nhiên, và có một số lại bị chủ bỏ rơi hoặc đi lạc.

Cho dù có nguồn gốc như thế nào, mèo hoang thường rất sợ người, và sẽ có hành động cào cắn thay vì rúc vào lòng. Điều này khiến cho việc thuần hóa mèo hoang trở nên khó khăn hơn. Thuần hóa là một thử thách và cần rất nhiều thời gian: mèo con hoang dã có thể được thuần phục từ 2 đến 6 tuần, nhưng đôi lúc có thể phải mất một năm trở lên mới có thể thuần hóa mèo trưởng thành được. Tập thích nghi cho mèo hoang ở trong nhà cũng như giúp chúng hòa nhập với môi trường xung quanh mất khoảng vài tiếng mỗi ngày, có thể kéo dài nhiều tháng.

Mèo hoang thường không thích hợp để nhận nuôi vì chúng chỉ gắn bó với người đã thuần hóa chúng. Mèo hoang là động vật hoang dã. Bạn có thể bị thương nếu không cẩn thận khi tiếp xúc với chúng. Mèo hoang rất dễ bị tổn thương trong nhiều điều kiện môi trường, chẳng hạn như tiếp xúc với yếu tố thiên nhiên (ví dụ như gió, mưa), viêm nhiễm, và bị động vật khác tấn công. Tỷ lệ tử vong ở mèo con hoang dã đạt gần 50%. Cần ước lượng tuổi và xác định con mèo bao nhiêu tuổi để đánh giá mức độ thuần hóa khó hay dễ. Mèo hoang còn nhỏ, đặc biệt là những còn nhỏ hơn 10 đến 12 tuần tuổi thường dễ thuần phục hơn. Mèo hoang trưởng thành sống ngoài đường trong thời gian dài sẽ khó thuần hóa.

Đánh giá mức độ hoang dã của mèo để thuần hóa. Mèo hoang thường có thể là hoang dã hoàn toàn (không tiếp xúc với con người hoặc tương tác tiêu cực với con người), bán hoang dã (có tương tác tích cực với con người), hoặc hoang dã cải đạo (mèo nhà bị bỏ rơi trở thành bán hoang dã). Mèo hoang dã hoàn toàn rất khó thuần phục và tập thích nghi, trái lại mèo hoang dã cải đạo lại dễ thuần hóa nhất. Mèo bán hoang dã tìm đến con người để cung cấp thức ăn, nhưng không muốn tiếp xúc với họ. Mức độ tương tác với người tối thiểu này dạy chúng một số quy tắc giao tiếp của thế giới loài người. Mèo bán hoang dã thường sống gần nhà người dân.

Chúng cần ở trong khu vực khép kín cho đến khi cảm thấy thoải mái với người chủ cũng như môi trường mới. Sắp xếp phòng nhỏ yên tĩnh, chẳng hạn như phòng vệ sinh, tách biệt với thành viên gia đình và những con vật nuôi khác. Đóng kín cửa sổ và cửa ra vào để mèo không thoát ra ngoài. Dùng đèn ngủ để thắp sáng căn phòng, thay vì bật đèn trần. Bóng tối giúp mèo hoang cảm thấy an toàn trong môi trường mới. Để giúp mèo làm quen với mùi người, có thể trải quần áo cũ (chẳng hạn như tất, áo khoác) vào trong phòng. Mèo hoang sẽ cần ít nhất vài giờ để ổn định. Việc thuần hóa nên thực hiện trong nhà. Tuy nhiên, cảm giác sợ hãi con người của chúng sẽ gây nên vấn đề khi mang chúng về nhà. Cho mèo hoang ăn đúng giờ mỗi ngày, Cho mèo hoang ăn ngoài trời.

Dành thời gian cho mèo hoang nhưng không đụng chạm vào chúng. Sau khi mèo đã ổn định, bạn có thể bắt đầu quá trình tương tác để chúng làm quen với con người. Để tránh bị cào cắn, nên mang áo tay dài, quần dài, găng tay, và giày khi bước vào phòng. Sắp xếp thời gian tương tác với mèo hoang cố định thời gian mỗi ngày. Việc hình thành thói quen giúp chúng ổn định trong môi trường nhà ở. Gõ cửa trước khi mở, và bước vào phòng thật chậm rãi. Không nhìn chằm chằm hoặc tiếp xúc ánh mắt với mèo hoang vì chúng sẽ coi điều này mang tính gây hấn. Thay vào đó, nên ngoảnh đi và cúi đầu xuống thấp. Khi mèo hoang cảm thấy thoải mái, có thể ngồi cạnh chúng khoảng một giờ vào buổi sáng và tối.

Không cố gắng đụng chạm mèo hoang lúc ban đầu điều này chỉ làm cho chúng cào cắn và kêu rít lên. Nên chơi đùa với mèo hoang giúp chúng cảm thấy gần gũi trước khi đụng chạm vào mèo. Quan sát ngôn ngữ cơ thể sẵn sàng của mèo hoang. Việc đụng chạm vào mèo hoang có thể chứa đầy nguy hiểm vì chúng có thể tự vệ và tấn công do sợ hãi. Việc quan sát ngôn ngữ cơ thể sẽ giúp nhận ra khi nào thì chúng cảm thấy sẵn sàng chuyển sang mức độ tương tác mới với con người. Hành động nhào tới và gầm gừ và cụp tai xuống có nghĩa chúng vẫn chưa cảm thấy thoải mái khi tiếp xúc với con người. Mèo hoang có thể rít lên nếu chúng không muốn người đụng vào. Nếu mèo khá điềm tĩnh khi ở cạnh con người, thì đây là dấu hiệu cho thấy chúng sẵn sàng tiếp cận với con người.

Cho mèo tập thích nghi với bàn tay. Trong khi vẫn còn dè chừng con người, mèo hoang cần có thời gian làm quen với tay. Không vuốt ve mèo hoang. Việc khám phá tìm hiểu là cách mà chúng sử dụng để xác định xem bạn có phải là mối đe dọa tiềm ẩn hay không, việc âu yếm mèo hoang và hành động vuốt ve mèo hoang có thể khá nguy hiểm vì không biết được liệu chúng sẽ chào đón hay sẽ tấn công. Khi mèo tiếp cận, đánh hơi và đẩy nhẹ tay, có thể từ từ nâng bàn tay và giữ ngang tầm mắt của chúng. Từ từ nâng bàn tay ngay tầm mắt của mèo, sau đó bắt đầu vuốt ve chúng.

Chú ý ngôn ngữ cơ thể của mèo. Hành động co cơ bắp, đuôi sột soạt, đồng tử giãn ra, và tai cụp xuống đều là những dấu hiệu cho thấy bạn nên ngừng âu yếm và cho chúng tận hưởng không gian riêng. Vuốt ve lần đầu thật nhanh và nên ngừng âu yếm mèo hoang trước khi chúng thể hiện thái độ không muốn tiếp tục nữa. Nếu mèo còn nhỏ, có thể thử nhấc chúng lên và đặt vào lòng khi mèo đã trở nên thoải mái với việc được âu yếm và có thể bế chúng, lưu ý rằng chúng vẫn là động vật hoang dã, vì thế nên dùng khăn bọc kín cơ thể của mèo một cách chậm rãi và từ tốn (chừa phần gáy ra) để chúng không cào cắn.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Sự thuần hóa động vật http://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/bi-mat-thuan... http://baodatviet.vn/khoa-hoc/khoa-hoc/tai-sao-kho... http://nld.com.vn/cong-doan/thuan-hoa-thu-hoang-20... http://danviet.vn/nha-nong/thuan-hoa-ga-rung-de-ha... http://infonet.vn/loai-cho-duoc-thuan-hoa-toi-2-la... http://m.thvl.vn/?p=817718 http://vietnamnet.vn/vn/khoa-hoc/con-nguoi-da-thua... http://vietnamnet.vn/vn/khoa-hoc/tai-sao-khong-the... http://vtc.vn/tai-sao-con-nguoi-khong-thuan-hoa-du...